Thông báo COVID-19: Nhập cảnh vào Algeria bị cấm ngoại trừ công dân Algeria và công dân nước ngoài có thị thực cư trú / ngoại giao đến Algeria. Nếu bạn đủ điều kiện nhập cảnh, bạn phải tự cách ly 14 ngày sau khi đến. | |
(Lần cuối cập nhật thông tin: 03 tháng 9 2020) |
Vị trí | |
Quốc kỳ | |
Thông tin cơ bản | |
Thủ đô | Algiers |
Chính phủ | Cộng hoà |
Tiền tệ | Dinar Algeria (DZD) |
Diện tích | 2.381.741 km2 |
Dân số | 37.100.000 (ước tính 2012) |
Ngôn ngữ | Tiếng Ả Rập, tiếng Ả Rập Algeria, tiếng Pháp, một số ngôn ngữ Berber |
Tôn giáo | 99% Hồi giáo Sunni , <1% Thiên Chúa giáo, <1% Ibadi Islam |
Hệ thống điện | 230 V/50 Hz (sử dụng ổ cắm C &) |
Mã số điện thoại | +213 |
Internet TLD | .dz, الجزائر. |
Múi giờ | CET (UTC+01) |
CẢNH BÁO: Quốc gia này kết thúc nội chiến từ thập niên 1990 nhưng hiện thỉnh thoảng vẫn có một số cuộc tấn công vào các trụ sở cơ quan chính quyền, cảnh sát | |
Algérie (tiếng Ả Rập: الجزائر Bảng ký hiệu ngữ âm quốc tế [ɛlʤɛˈzɛːʔir], tiếng Berber (Tamazight): Lz̦ayer [ldzæjər], phiên âm tiếng Việt: "An-giê-ri", phiên âm Hán-Việt: "A Nhĩ Cập Lợi Á"), tên chính thức Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Algérie, là một nước tại Bắc Phi, và là nước lớn nhất trên lục địa Châu Phi (Sudan lớn hơn nhưng chia làm 2 nước Sudan và Nam Sudan). Nước này có chung biên giới với Tunisia ở phía đông bắc, Libya ở phía đông, Niger phía đông nam, Mali và Mauritanie phía tây nam, và Maroc cũng như một vài kilômét lãnh thổ phụ thuộc, Tây Sahara, ở phía tây. Theo hiến pháp, nước này được xác định là một quốc gia Hồi giáo, Ả Rập và Amazigh (Berber). Tên gọi "Algérie" xuất phát từ tên thành phố Algiers, và chính thức từ al-jazā’ir trong tiếng Ả Rập, có nghĩa là "hòn đảo", để chỉ bốn hòn đảo nằm ngoài khơi thành phố này trước khi chúng trở thành một phần lục địa năm 1525. Nhưng có lẽ chính xác nhất từ "Algiers" xuất phát từ Ziriya Bani MazGhana (được các nhà địa lý thời trung cổ như al-Idrisi và Yaqut al-Hamawi sử dụng) để chỉ người sáng lập ra nó vua Ziri Amazigh (thành phố của Ziri Amazigh), người thành lập thành phố Algiers thời trung cổ. Không may thay, để dấu nguồn gốc Amazigh của cái tên Algérie đi ngược lại với chính sách quốc gia Ả Rập của các chính phủ Algérie, nguồn gốc Amazigh này không được công nhận.
Tổng quan
[sửa]Lịch sử
[sửa]Algérie từng là nơi sinh sống của người Berber (hay Imazighen) từ ít nhất năm 10.000 TCN. Từ năm 1000 TCN trở về sau, người Carthage bắt đầu tạo lập ảnh hưởng tại đây, thành lập nên những khu định cư dọc bờ biển. Các vương quốc Berber bắt đầu xuất hiện, nổi tiếng nhất là Numidia, lợi dụng cơ hội sau Các cuộc chiến tranh Punic để trở thành độc lập với Carthage nhưng ngay sau đó lại bị Cộng hòa La Mã chiếm năm 200 TCN. Khi Đế chế Tây La Mã sụp đổ, người Berber một lần nữa giành lại độc lập trong khi người Vandals chiếm nhiều vùng khác cho tới khi bị các vị tướng của Hoàng đế Byzantine, Justinian I trục xuất khỏi nơi này. Sau đó, Đế chế Byzantinee tạm thời kiểm soát được vùng phía đông đất nước cho tới khi người Ả Rập xuất hiện vào thế kỷ thứ 8.
Vòm La Mã của Trajan tại Thamugadi (Timgad), AlgérieSau một số thập kỷ kháng chiến dữ dội dưới sự lãnh đạo của Kusayla và Kahina, người Berbers chấp nhận Hồi giáo en masse (theo số đông), nhưng hầu như ngay lập tức trục xuất umayyad Caliphate ra khỏi Algérie, thành lập nên một nhà nước Ibadi của những người Rustamid. Sau khi đã cải đạo Kutama của người Kabylie sang đạo của mình nhà Fatima Shia lật đổ Rustamids, và chinh phục Ai Cập. Họ để lại Algérie và Tunisia cho những kẻ chư hầu Zirid; sau này người Zirid nổi loạn và theo dòng Hồi giáo Sunni, họ đồng hóa với một bộ lạc Ả Rập đông dân, bộ lạc Banu Hilal, để làm yếu bộ lạc đó, nhưng điều đó bất ngờ lại dẫn tới quá trình Ả Rập hoá vùng nông thôn. Almoravid và Almohad, các triều đại của người Berber từ phía tây do những người cải cách tôn giáo lập nên đã mang lại một giai đoạn khá ổn định và phát triển; tuy nhiên với sự sụp đổ của Almohads, Algérie trở thành một chiến trường cho ba quốc gia tiếp theo, Zayyanid của Algérie, Hafsid của Tunisia, và Marinid của Maroc. Trong thế kỷ mười lăm và mười sáu, Tây Ban Nha bắt đầu tấn công chiếm giữ nhiều thành phố ven biển, tìm cách lôi kéo sự hỗ trợ từ Đế chế Ottoman.
Algérie được gộp vào trong Đế chế Ottoman bởi Khair ad-Din và em trai ông là Aruj, người đã lập ra những biên giới hiện đại của Algérie ở phía bắc và biến bờ biển nước này thành cơ sở cho những tên cướp biển; cướp biển phát triển mạnh nhất tại trong những năm 1600. Việc cướp bóc các tàu buôn Hoa Kỳ trên Địa Trung Hải dẫn tới cuộc chiến Berber thứ nhất và thứ hai với Hoa Kỳ. Viện lý do coi thường Lãnh sự của mình, Pháp xâm chiếm Algiers năm 1830; tuy nhiên, nhiều cuộc kháng chiến do các cá nhân như Emir Abdelkader, Ahmed Bey và Fatma N'Soumer tiến hành khiến công cuộc chinh phục Algérie của Pháp diễn ra chậm chạp, về mặt kỹ thuật chỉ hoàn thành vào cuối những năm 1900 khi Tuareg cuối cùng bị chinh phục.
Constantine, Algérie 1840Tuy nhiên, trong lúc ấy Pháp đã biến Algérie thành một phần lãnh thổ của mình, tình trạng này chỉ chấm dứt với sự sụp đổ của nền Đệ tứ Cộng hoà. Hàng chục nghìn người định cư từ Pháp, Ý, Tây Ban Nha và Malta đã tới sống tại các trang trại trên đồng bằng ven biển Algérie và chiếm đa số những vùng ưu thế tại các thành phố ở Algérie, lợi dụng việc sung công các đất do các cộng đồng sở hữu của Pháp, và ứng dụng các công nghệ nông nghiệp mới để tăng diện tích đất canh tác. Hậu duệ của những người Châu Âu tại Algérie (được gọi là "chân đen" - Pieds-Noirs), cũng như những người gốc Algérie theo Do Thái (thường có nguồn gốc Sephardic), trở thành các công dân Pháp thực sự bắt đầu từ cuối thế kỷ 19; trái lại, đa phần dân Hồi giáo Algérie (thậm chí cả những cựu chiến binh trong quân đội Pháp) không được nhận Pháp tịch cũng như quyền bầu cử. Kết cấu xã hội Algérie đã bị đẩy tới mức căng thẳng tột cùng trong giai đoạn này: tỷ lệ biết chữ giảm sút[3], trong khi việc quốc hữu hóa đất đai đã khiến nhiều người dân trở thành vô gia cư. Tuy nhiên, dân số vẫn tăng đều đặn[4].
Năm 1954, Mặt trận Giải phóng Quốc gia (có lúc gọi là Mặt trận giải phóng Dân tộc Algérie(FLN) bắt đầu một cuộc chiến tranh giành độc lập cho Algérie; sau gần một thập kỷ chiến đấu cả tại thành thị và vùng nông thôn, họ đã thành công trong việc hất cẳng Pháp năm 1962. Đa phần trong số 1.025.000 người "chân đen", cũng như 91.000 người "harki" (người Hồi giáo Algérie ủng hộ Pháp trong quân đội Pháp), chiếm khoảng 10% dân số Algérie năm 1962, đã di cư sang Pháp trong vài tháng giữa năm đó.
Địa lý
[sửa]Algérie nằm ở Bắc Phi, Bắc giáp Địa Trung Hải, Nam giáp Niger, Mali, Mauritanie, Đông giáp Tunisia và Libya, Tây giáp Maroc. Lãnh thổ được chia thành ba vùng địa lí tự nhiên nối tiếp nhau từ Bắc đến Nam : Những đồng bằng nhỏ hẹp ven biển không liên tục, xen kẽ với vùng đồi núi Atlas Tell, thích hợp cho việc phát triển lúa mì và các loại cây cận nhiệt đới. phía nam dãy Atlas Tell là những cao nguyên rộng lớn rải rác những hồ mặn, một khu vực thuận lợi cho việc chăn nuôi cừu, trồng ô liu. Vùng phía nam là bộ phận của sa mạc Sahara chiếm 80% diện tích đất nước, nơi có tiềm năng khổng lồ về dầu mỏ, khí đốt và nhiều khoáng sản giá trị khác. Đa phần vùng bờ biển có nhiều đồi, thỉnh thoảng thậm chí là các dãy núi, và có ít bến cảng tốt. Vùng ngay phía nam bờ biển, được gọi là Tell, khá màu mỡ. Xa hơn nữa về phía nam là dãy núi Atlas và sa mạc Sahara. Algiers, Oran và Constantine là các thành phố lớn. Khí hâu Algérie khô cằn và nóng, dù khí hậu vùng bờ biển khá dễ chịu, mùa đông tại các vùng núi có thể rất khắc nghiệt. Algérie có nhiều gió nóng ẩm, một loại gió nóng mang theo bụi và cát đặc biệt thường xảy ra vào mùa hè.
Vùng
[sửa]Trung bộ Algeria vùng đô thị xung quanh thủ đô |
Đông bắc Algeria đồng bằng cao và các núi rộng lớn đông Algiers |
Tây bắc Algeria khu vực ven biển núi non tây của Algiers |
Saharan Atlas the mountain range inland of the high plateaus |
Saharan Algeria sa mạc rộng lớn ở phía nam đất nước |
Thành phố
[sửa]- Algiers - Với gần 3 triệu dân, Algiers là thủ đô của Algeria, và trung tâm chính trị và văn hóa của quốc gia.
- Annaba - Một thị xã với 200.000 dân ở phía đông của đất nước bên cạnh biên giới của Tunisia.
- Batna
- Bechar - thành phố nhỏ ở sa mạc Sahara, không xa biên giới Ma-rốc.
- Constantine
- Oran - thành phố lớn thứ 2 của Algeria sau thủ đô Algiers, còn được gọi là "Paris thứ hai" của Algeria, với nhiều tòa nhà ấn tượng từ thời thuộc địa.
- Sétif - Trung tâm của Kabyle với nhiệt độ khá ôn hòa và thỉnh thoảng tuyết rơi trong mùa đông.
- Tamanrasset - thành phố lớn nhất ở phía Nam và điểm khởi đầu cho cuộc thám hiểm tới sa mạc Sahara và dãy núi Hoggar.
Các điểm đến khác
[sửa]- Di tích La Mã tại Timgad bên ngoài Batna
- El-Oued với kiến trúc mái vòm của nó và Grand Erg Oriental gần đó-khu vực cồn cát lớn thứ hai Sahara
- Hippo Regius, một thành phố cổ đại Numidia từng là trung tâm đầu của Kitô giáo với phòng tắm và diễn đàn bảo tồn tốt
- Các kiến trúc tuyệt vời M'zab Valley
- Tassili N'Ajjer
Đến
[sửa]Visa
[sửa]Công dân mang hộ chiếu phổ thông của Việt Nam được cấp visa lúc đến không thu lệ phí.
Các hạn chế visa: Từ chối nhập cảnh đối với công dân Israel và những người cho thấy có dấu và/hoặc visa do Israel cấp |
Visa
[sửa]Hướng dẫn Visa
Nếu có thắc mắc về tình trạng hồ sơ xin visa, xin vui lòng liên lạc với văn phòng thị thực từ thứ hai đến thứ năm 9:00-11:00
- Xin vui lòng đọc kỹ hướng dẫn trước khi điền vào các mẫu đơn. Trả lời tất cả các câu hỏi trên mẫu đơn và điền vào tất cả các phần của biểu mẫu. Ví dụ, nếu cha mẹ của bạn qua đời, cung cấp cho họ tên. Không để trống phần hoặc viết đơn giản là "Người chết".
- Cả hai hình thức phải có chữ ký gốc của người nộp đơn.
- Xin lưu ý rằng các hình thức visa cũ sẽ không được chấp nhận để xin thị thực. Chỉ sử dụng các hình thức ứng dụng mới. Bất kỳ ứng dụng trình sử dụng một hình thức cũ sẽ bị từ chối.
- Các ứng dụng phải được lấp đầy trên màn hình chỉ. Không viết tay sẽ được chấp nhận 20FORM% 2018-02-2005.pdf
Yêu cầu Visa
1. Ghi nộp hộ chiếu của bạn khi bạn nộp đơn xin thị thực và xin đính kèm hai hình ảnh hộ chiếu (dán hoặc ghim) với hai hình thức, một trên mỗi hình thức. Hộ chiếu phải còn giá trị ít nhất là 06 tháng kể từ ngày nhập cảnh vào Algeria.
2. Một không hoàn lại tiền đặt hàng (cá nhân) trả cho thứ tự của các Đại sứ quán Algeria trong số tiền $ 135 cho công dân Mỹ. Tất cả các công dân khác phải kiểm tra với Bộ phận Thị thực cho các yêu cầu áp dụng và lệ phí.
3. Đương đơn xin visa kinh doanh phải bao gồm một thư trên giấy chính thức từ chủ nhân của họ nêu rõ mục đích chuyến đi của họ, và đầy đủ tên và địa chỉ liên lạc của họ ở Algeria. Ứng viên phải nộp với các ứng dụng của họ một thư mời từ các công ty Algeria họ có ý định đến thăm.
4. Đương đơn xin visa làm việc phải nộp cùng với đơn xin thị thực của họ một phép làm việc cung cấp bởi Bộ Lao động Algeria. Đại sứ quán sẽ không chấp nhận bất kỳ quyền fax hoặc gửi riêng.
5. Xin Visa du lịch phải nộp một hành trình của du lịch hàng không của họ và xác nhận Đặt phòng khách sạn tại Algeria.
6. Gia đình / Visa Khách: Ứng viên phải cung cấp với các ứng dụng của họ một lời mời từ máy chủ của họ ở Algeria và công chứng tại hội trường thành phố nơi cư trú của chủ nhà Algeria. Đại sứ quán sẽ không chấp nhận lời mời qua fax hoặc gửi riêng biệt.
Vợ hoặc chồng của công dân Algeria cần nộp bản sao thẻ đăng ký Lãnh sự hợp lệ của người phối ngẫu của họ và thư tài trợ có chữ ký của người phối ngẫu Algeria.
Trở lại của hộ chiếu: Ứng viên có thể nhận hộ chiếu tại Đại sứ quán hoặc gửi một phong bì tự giải quyết trả trước. Đại sứ quán là không chịu trách nhiệm về mất mát hoặc sự chậm trễ của tài liệu của cơ quan bưu điện hoặc dịch vụ visa khác.
Quan trọng:
-Toàn bộ tài liệu được yêu cầu. Bất kỳ tài liệu hướng dẫn đầy đủ có thể kéo dài thời gian xử lý hoặc trả lại cho người nộp đơn theo giá gốc. -Chế biến của một ứng dụng có thể được trì hoãn, nếu thỏa thuận trước của chính quyền Algeria là bắt buộc. Hơn nữa, Đại sứ quán có quyền yêu cầu thêm tài liệu từ bất kỳ ứng viên. Nó không phải là trách nhiệm của Đại sứ quán nếu có bất kỳ sự chậm trễ trong việc xử lý các hồ sơ xin visa. -Các ứng viên phải sắp xếp đi du lịch đến Algeria dựa trên ngày nhập cảnh ghi trên thị thực của họ. Ứng viên không nên đến trong Algeria trước ngày đó, họ sẽ không được phép vào. Trong trường hợp thay đổi trong kế hoạch du lịch, các ứng viên phải có thị thực mới.
Công dân của các quốc gia sau đây có thể đi du lịch thị thực miễn phí: Ecuador, Guinea, Haiti, Jordan, Libya, Malaysia, Maldives, Mali, Morocco, Mauritania, Montenegro, Syria, Tunisia, Yemen.
Công dân của các quốc gia sau đây có thể có được cấp visa khi đến: Armenia, Azerbaijan, Bangladesh, Georgia, Indonesia, Kenya, Lào, Madagascar, Mozambique, Nepal, Zambia, Tanzania, Togo, Uganda.
Bằng đường hàng không
[sửa]Các hãng hàng không lớn nhất châu Âu như (Lufthansa, British Airways, Air France, Iberia, TAP Bồ Đào Nha, Turkish Airlines) bay hàng ngày đến Algiers nhưng cũng có một số tuyến đường dài như (Bắc Kinh, New York, Montreal , Doha)
Từ Vương quốc Anh bay qua Barcelona hoặc Madrid có thể rẻ hơn bay trực tiếp. Từ Hoa Kỳ là cách rẻ nhất để có được thành Algiers là qua London (British Airways), Paris (Air France) hoặc Frankfurt (Lufthansa).
Hãng hàng không quốc gia Air Algerie bay đến nhiều điểm đến ở châu Âu đặc biệt là Pháp mà còn để một số thành phố ở châu Phi và Trung Đông. Tất cả các điểm phục vụ của Air Algerie từ Algiers: Abijan, Alicante, Bamako, Barcelona, Brussels, Basel, Bắc Kinh, Beirut, Berlin, Cairo, Casablanca, Dakar, Damascus, Dubai, Frankfurt, Geneva, Istanbul, London, Madrid, Milan, Montreal, Moscow, New York JFK, Niamey, Paris, Rome, Tripoli, Tunis. Để biết thêm thông tin về các sân bay Algiers kiểm tra trang web chính thức Aéroport d'Alger.
Bằng tàu hỏa
[sửa]Bằng ô-tô
[sửa]Bằng buýt
[sửa]Bằng tàu thuyền
[sửa]Đi lại
[sửa]Tham quan
[sửa]Tương tự như Libya, ngành du lịch Algeria được biết đến với các di tích cổ, chủ yếu là những công trình thời kỳ Phoenicia, thời kỳ La Mã và Byzantine. Một số trong những công trình nổi tiếng nhất bao gồm Timgad gần Batna,Hippo Regius tại Annaba,Djemila tại Sétif, Calama tại Guelma, và tàn tích từ tất cả ba đế quốc tại Tipasa.
Trong được biết nhiều hơn đến với các di tích La Mã, khả năng du lịch lớn nhất của Algeria nằm trong Sahara, đơn giản là không một quốc gia nào trên thế giới có thể cung cấp các loại phiêu lưu thú vị và kỳ lạ xung quanh sa mạc tuyệt vời. Năm thành phố liên kết với nhau là một sân chơi kiến trúc hoành tráng gợi nhiều liên tưởng của lập thể hiện đại và nghệ thuật siêu thực. Nhưng cảnh quan rất ấn tượng sau đây: núi Sahara Atlas khắc nghiệt, lởm chởm, sa mạc vô tận và miền núi Hoggar xung quanh vốn sa mạc của đất nước Tamanrasset, các khu vực đụn cát lớn Grand Erg Oriental tại El- Oued, và nghệ thuật chạm khắc đá cổ xưa của Djelfa và Vườn quốc gia sa mạc Sahara của Tassili N'Ajjer.
Ngôn ngữ
[sửa]Ngôn ngữ lớn nhất đồng thời là ngôn ngữ chính thức của Algérie, tiếng Ả Rập, là tiếng mẹ đẻ ở hình thức thổ ngữ ("Darja") của 80% dân số, và giống như toàn bộ thế giới Ả Rập, được sử dụng như biến thể của tiếng Ả Rập tiêu chuẩn hiện đại trên các phương tiện truyền thông đại chúng và các dịp nghi lễ chính thức. Khoảng 20% dân số, tự coi mình là người Berber hay Imazighen, có tiếng mẹ đẻ không phải Ả Rập mà là một kiểu thổ ngữ Tamazight. Tuy nhiên, nhiều người Algérie sử dụng thành thạo cả hai ngôn ngữ trên. Tiếng Ả Rập là ngôn ngữ chính thức duy nhất của Algérie, dù tiếng Tamazight gần đây cũng được công nhận là ngôn ngữ quốc gia cùng với nó. Nghiên cứu phong tục học cho thấy có 18 ngôn ngữ tại Algérie, chia thành hai nhóm chính là tiếng Ả Rập và Tamazight, ngoài ra còn có tiếng Korandje. Về mặt chính trị, vấn đề ngôn ngữ khá nhạy cảm, đặc biệt đối với cộng đồng thiểu số Berber, vốn đã trở nên yếu thế sau khi quốc gia chấp nhận Ả Rập hoá. Chính sách ngôn ngữ và sự Ả Rập hóa một phần là sự phản ứng trước sự thực rằng 130 năm thuộc địa hoá của Pháp đã để lại cho đất nước cả nền hành chính và giáo dục bậc cao đều hoàn toàn bằng tiếng Pháp, cũng như sự thúc đẩy của chủ nghĩa quốc gia Ả Rập do nhiều chính phủ liên tiếp tại Algérie tiến hành. Tiếng Pháp vẫn là ngôn ngữ được học nhiều nhất trong số các ngoại ngữ, và được sử dụng rộng rãi (vượt xa ngoại ngữ thứ hai là tiếng Anh), nhưng hiếm khi được coi là tiếng mẹ đẻ. Từ khi giành độc lập, chính phủ đã theo đuổi một chính sách Ả Rập hóa ngôn ngữ giáo dục và hành chính, đã mang lại một số thành công, dù nhiều giáo trình đại học vẫn được giảng dạy bằng tiếng Pháp.