Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Uzbekistan”

Từ Wikivoyage
Châu Á > Trung Á > Uzbekistan
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Undo revision 1275298 by TuanUt-Bot! (talk)
Dòng 20: Dòng 20:


==Tổng quan==
==Tổng quan==
===Lịch sử===
Vùng đất Uzbekistan đã có người ở từ hai nghìn năm trước Công nguyên. Có nhiều di tích về những công cụ và công trình của loài người từ thời kỳ sớm tại các vùng Ferghana, Tashkent, Bukhara, Khorezm (Khwarezm, Chorasmia) và Samarkand.

Alexandros Đại Đế đã chinh phục Sogdiana và Bactria năm 327 trước Công nguyên, cưới Roxana, con gái của vị thủ lĩnh Bactrian địa phương. Tuy nhiên, cuộc chinh phục được cho là không mang lại nhiều kết quả cho Alexandros bởi những cuộc kháng chiến của người dân địa phương khá mãnh liệt, khiến quân đội của Alexandros bị sa lầy trong vùng.

Trong nhiều thế kỷ vùng Uzbekistan nằm dưới quyền cai trị của các Đế chế Iran như Đế chế Parthian và Sassanid.

Ở thế kỷ mười bốn sau Công nguyên, Timur, thường được gọi là Tamerlane ở phía tây, nổi lên thay thế người Mông Cổ và xây dựng một đế chế. Trong các chiến dịch quân sự của mình, Tamerlane đã tiến xa tới tận Trung Đông. Ông đánh bại Hoàng đế Đế chế Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman Bayezid I. Bayezid bị bắt và chết trong khi bị giam cầm. Tamerlane đã tìm cách xây dựng thủ đô đế chế của mình tại Samarkand. Ngày nay Tamerlane được coi là một trong những anh hùng vĩ đại nhất của Uzbekistan người đóng vai trò quan trọng trong lịch sử và đặc tính quốc gia. Sau sự sụp đổ của Đế chế Timurid, những người du mục Uzbek đã chinh phục vùng này.

Ở thế kỷ 19, Đế chế Nga bắt đầu mở rộng và kéo dài tới tận Trung Á. Giai đoạn "Great Game" nói chung được coii là bắt đầu từ khoảng năm 1813 tới Hiệp oớc Anh Nga năm 1907. Sau cuộc cách mạng của những người Bolshevik năm 1917 một thời kỳ ổn định hơn diễn ra. Đầu thế kỷ 19, một vùng đất khoảng 2.000 dặm (3.200 km) chia cắt Ấn Độ thuộc Anh và những vùng xa xôi của nước Nga Sa Hoàng. Đa số vùng đất đệm này còn chưa được vẽ bản đồ.

Tới đầu thế kỷ 20, Trung Á đã hoàn tay rơi vào tay người Nga dù một số cuộc kháng chiến chống người Bolsheviks có xảy ra trong thời kỳ đầu, Uzbekistan và phần còn lại của Trung Á trở thành một phần của Liên bang Xô viết. Ngày 31 tháng 8 năm 1991, Uzbekistan bất đắc dĩ tuyên bố độc lập, và ngày 1 tháng 9 trở thành ngày quốc khánh.

Nước này hiện đang tìm cách dần giảm sự phục thuộc vào nông nghiệp - đây là nước xuất khẩu bông lớn thứ hai thế giới - trong khi vẫn phát triển các nguồn tài nguyên khoáng sản và dầu mỏ.
===Địa lý===


Uzbekistan xấp xỉ Maroc và có diện tích 447.400 kilômét vuông (172.700 sq mi). Đây là nước lớn thứ 56 trên thế giới.
Uzbekistan xấp xỉ Maroc và có diện tích 447.400 kilômét vuông (172.700 sq mi). Đây là nước lớn thứ 56 trên thế giới.

Phiên bản lúc 15:31, ngày 9 tháng 7 năm 2013

Uzbekistan
Vị trí
Quốc kỳ
Thông tin cơ bản
Chính phủ Federal Republic
Tiền tệ Uzbek som (UZS)
Diện tích 447.400 km2
Dân số 25.563.441
Ngôn ngữ Uzbek 74,3%, tiếng Nga 14,2%, Tajik 4.4%, khác 7.1%
Tôn giáo Hồi 88% (hầu hết là Sunni), Eastern Orthodox 9%, khác 3%
Hệ thống điện 220V 50Hz
Mã số điện thoại 998
Internet TLD .uz
Múi giờ UTC+5


Tashkent, thủ đô Uzbekistan

Uzbekistan (có thể gọi là Uzbekstan hay Ozbekistan), tên chính thức Cộng hoà Uzbekistan (tiếng Uzbek: O‘zbekiston Respublikasi; Kiril: Ўзбекистон Республикаси; tiếng Nga: Республика Узбекистан; phát âm: U-dơ-bê-kít-xtan), là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Trung Á, trước kia từng là một phần của Liên bang Xô viết. Nước này có chung biên giới với Kazakhstan ở phía tây và phía bắc, Kyrgyzstan và Tajikistan ở phía đông, và Afghanistan cùng Turkmenistan ở phía nam.

Tổng quan

Lịch sử

Vùng đất Uzbekistan đã có người ở từ hai nghìn năm trước Công nguyên. Có nhiều di tích về những công cụ và công trình của loài người từ thời kỳ sớm tại các vùng Ferghana, Tashkent, Bukhara, Khorezm (Khwarezm, Chorasmia) và Samarkand.

Alexandros Đại Đế đã chinh phục Sogdiana và Bactria năm 327 trước Công nguyên, cưới Roxana, con gái của vị thủ lĩnh Bactrian địa phương. Tuy nhiên, cuộc chinh phục được cho là không mang lại nhiều kết quả cho Alexandros bởi những cuộc kháng chiến của người dân địa phương khá mãnh liệt, khiến quân đội của Alexandros bị sa lầy trong vùng.

Trong nhiều thế kỷ vùng Uzbekistan nằm dưới quyền cai trị của các Đế chế Iran như Đế chế Parthian và Sassanid.

Ở thế kỷ mười bốn sau Công nguyên, Timur, thường được gọi là Tamerlane ở phía tây, nổi lên thay thế người Mông Cổ và xây dựng một đế chế. Trong các chiến dịch quân sự của mình, Tamerlane đã tiến xa tới tận Trung Đông. Ông đánh bại Hoàng đế Đế chế Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman Bayezid I. Bayezid bị bắt và chết trong khi bị giam cầm. Tamerlane đã tìm cách xây dựng thủ đô đế chế của mình tại Samarkand. Ngày nay Tamerlane được coi là một trong những anh hùng vĩ đại nhất của Uzbekistan người đóng vai trò quan trọng trong lịch sử và đặc tính quốc gia. Sau sự sụp đổ của Đế chế Timurid, những người du mục Uzbek đã chinh phục vùng này.

Ở thế kỷ 19, Đế chế Nga bắt đầu mở rộng và kéo dài tới tận Trung Á. Giai đoạn "Great Game" nói chung được coii là bắt đầu từ khoảng năm 1813 tới Hiệp oớc Anh Nga năm 1907. Sau cuộc cách mạng của những người Bolshevik năm 1917 một thời kỳ ổn định hơn diễn ra. Đầu thế kỷ 19, một vùng đất khoảng 2.000 dặm (3.200 km) chia cắt Ấn Độ thuộc Anh và những vùng xa xôi của nước Nga Sa Hoàng. Đa số vùng đất đệm này còn chưa được vẽ bản đồ.

Tới đầu thế kỷ 20, Trung Á đã hoàn tay rơi vào tay người Nga dù một số cuộc kháng chiến chống người Bolsheviks có xảy ra trong thời kỳ đầu, Uzbekistan và phần còn lại của Trung Á trở thành một phần của Liên bang Xô viết. Ngày 31 tháng 8 năm 1991, Uzbekistan bất đắc dĩ tuyên bố độc lập, và ngày 1 tháng 9 trở thành ngày quốc khánh.

Nước này hiện đang tìm cách dần giảm sự phục thuộc vào nông nghiệp - đây là nước xuất khẩu bông lớn thứ hai thế giới - trong khi vẫn phát triển các nguồn tài nguyên khoáng sản và dầu mỏ.

Địa lý

Uzbekistan xấp xỉ Maroc và có diện tích 447.400 kilômét vuông (172.700 sq mi). Đây là nước lớn thứ 56 trên thế giới.

Uzbekistan trải dài 1.425 kilômét (885 mi) từ tây sang đông và 930 kilômét (578 mi) từ bắc tới nam. Giáp biên giới với Turkmenistan ở phía tây nam, Kazakhstan và Biển Aral ở phía bắc, và Tajikistan cùng Kyrgyzstan ở phía nam và phía đông, Uzbekistan không phải là một trong những nước lớn nhất vùng Trung Á nhưng là quốc gia Trung Á duy nhất giáp biên giới với tất cả bốn nước kia. Uzbekistan cũng giáp biên giới với Afghanistan ở phía nam.

Uzbekistan là một quốc gia nằm kín trong hai lục địa; 10% lãnh thổ nước này được trồng cấy dày đặc nhờ nước tưới tiêu từ các lưu vực sông. Đây là một trong hai quốc gia duy nhất nằm kín giữa hai lục địa - nước kia là Liechtenstein; và dù trường hợp của Uzbekistan không rõ ràng bằng, bởi nó giáp biên giới với hai nước (Kazakhstan ở phía bắc và Turkmenistan ở phía nam) goaớ với Biển Caspian kín trong lục địa nhưng từ đây tàu thủy có thể đi tới Biển Azov và từ đó tới Biển Đen, Địa Trung Hải và các đại dương khác.

Điểm cao nhất tại Uzbekistan là Adelunga Toghi ở độ cao 4.301 mét (14.111 ft). Khí hậu Cộng hòa Uzbekistan là khí hậu lục địa, với lượng mưa hàng năm khoảng 100-200 milimét, hay 3.9-7.9 inches). Nhiệt độ trung bình mùa hè thường khoảng 400C, mùa đông khoảng -230C.

Vùng

Thung lũng Ferghana
Khu vực màu mở và đông dân nhất.
Bắc Uzbekistan
Địa lý bị chi phối bởi những bãi cát màu đỏ rộng lớn của sa mạc Kyzylkum thuộc quyền điều hành của cộng hòa tự trị Qaraqalpaqstan.
Samarkand qua Bukhara
Đây là trái tim của con đường tơ lụa.
Nam Uzbekistan
Vùng núi, nơi Uzbekistan gặp dãy núi Pamir, có bộ tộc Tajik.
Vùng Tashkent
Trung tâm kinh tế và chính trị của Uzbekistan, bao quanh thủ đô Tashkent.

Thành phố

Các thành phố lớn gồm: Bukhara, Samarqand và Tashkent.

  • Tashkent, thủ đô
  • Andijan — thành phố lớn thứ 4 Uzbekistan.
  • Bukhara — thành phố huyền thoại trên con đường Tơ Lụa có 2500 tuổi.
  • Khiva, nơi có Itchan Kala
  • Namangan — thành phố lớn thứ 3.
  • Nukus — thủ đô của cộng hòa tự trị Qaraqalpaqstan.
  • Samarkand — thành phố lớn thứ nhì.
  • Shakhrisabz — một thành phố nhỏ, có trung tâm lịch sử là một di sản thế giới UNESCO.
  • Termez — thành phố cực nam gần biên giới với Afghanistan.

Các điểm đến khác

  • Biển Aral - một bài học về những nguy hiểm của suy thoái môi trường, sự khô cạn của biển Aral, tàn phá một khu vực khoảng bằng với diện tích của Đức với bệnh tật, dị tật bẩm sinh, tàn phá nông nghiệp và kinh tế.

Đến

Visa

Thị thực được cần có cho tất cả mọi người ngoài từ người mang hộ chiếu của các nước CIS. 'Thư mời' (LOI) không cần thiết đối với công dân các nước Áo, Bỉ, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Latvia, Malaysia, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh, nhưng vẫn còn cần thiết cho hầu hết các những người khác, ví dụ như cho công dân Canada & Hoa Kỳ theo thủ tục xin visa đơn giản

Bằng đường hàng không

Tashkent, (IATA: TAS, ICAO: UTTT) là sân bay quốc tế chính của Uzbekistan. Là sân bay hiện đại có nhiều hãng vận chuyển quốc tế hoạt động cũng như hãng hàng không quốc gia nước này Uzbekistan Airways [1]. Hệ thống hạ tần thì tốt nhưng nhân viên thì không. Mất hành lý có thể được giải quyết thông qua thủ tục hải quan rất mất thời gian.

Các sân bay khác ở Andijan, Bukhara, Ferghana, Karshi, Namangan, Nukus, Samarkand, Tashkent, Termez and Urgench.

Bằng tàu hỏa

Bằng ô-tô

Bằng buýt

Bằng tàu thuyền

Đi lại

Ngôn ngữ

Mua sắm

Chi phí

Thức ăn

Đồ uống

Chỗ nghỉ

Học

Làm

An toàn

Y tế

Tôn trọng

Liên hệ


Bài viết này còn ở dạng sơ khai nên cần bổ sung nhiều thông tin hơn. Nó có thể không có nhiều thông tin hữu ích. Hãy mạnh dạn sửa đổi và phát triển bài viết!