Vị trí | |
Quốc kỳ | |
Thông tin cơ bản | |
Thủ đô | Georgetown |
Chính phủ | Cộng hòa |
Tiền tệ | Đô la Guyana (GYD) |
Diện tích | tổng: 214.970 km2 nước: 18.120 km2 đất: 196.850 km2 |
Dân số | 767.000 (2006) |
Ngôn ngữ | Anh, Amerindian dialects, Creole, |
Tôn giáo | Cơ đốc 50%, Hindu 35%, Hồi giáo 10%, khác 5% |
Hệ thống điện | 110-240V/60Hz (kiểu Mỹ) |
Mã số điện thoại | +592 |
Internet TLD | .gy |
Múi giờ | UTC-3 đến UTC-4 |
Guyana là một quốc gia thuộc Châu Mỹ. Nó sở hữu phần bờ biển Đại Tây Dương ở phía bắc, và nằm giữa Suriname ở phía đông và Venezuela ở phía tây, phía nam là Brazil. Guyana là quốc gia nhỏ thứ 3 ở Nam Mỹ sau Suriname và Uruguay.
Tổng quan
[sửa]Lịch sử
[sửa]Ở thời những người Châu Âu đầu tiên tới vùng này khoảng năm 1500, Guyana là nơi sinh sống của các bộ tộc Arawak và Carib Amerindian. Dù Guyana đã được Christopher Columbus nhìn thấy lần đầu trong chuyến đi thứ ba của ông (năm 1498), đây vẫn chưa phải là nơi định cư của người Châu Âu cho tới khi người Hà Lan tới năm 1616, họ đã lập ra ba thuộc địa; Essequibo (1616), Berbice (1627) và Demerara (1752). Anh Quốc đã nắm quyền kiểm soát vào cuối thế kỷ 18 và người Hà Lan chính thức rời khỏi vùng này năm 1814. Ba vùng trở thành một thuộc địa Anh duy nhất được gọi là Guiana thuộc Anh năm 1831. Những người nô lệ bỏ trốn đã lập ra các cộng đồng Maroon. Sự xóa bỏ chế độ nô lệ năm 1834 dẫn tới sự thành lập các khu định cư da đen ở các vùng đô thị và sự du nhập lao động hợp đồng từ Madeira (Bồ Đào Nha) (bắt đầu từ năm 1834), Đức (lần đầu năm 1835), Ireland (1836), Scotland (1837), Malta (1839), Trung Quốc và Ấn Độ (bắt đầu năm 1838) để làm việc trên những cánh đồng mía. Năm 1889 Venezuela tuyên bố chủ quyền vùng đất lên tới tận Essequibo. Mười năm sau một tòa án quốc tế phán quyết vùng đất thuộc British Guyana; tuy nhiên tranh cãi vẫn còn tiếp diễn. Trong Thế chiến thứ hai, Hoa Kỳ dàn xếp để các lực lượng không quân của họ sử dụng các sân bay Anh Quốc tại Nam Mỹ, gồm cả những sân bay tại British Guiana[cần dẫn nguồn]. Năm 1953, vùng lãnh thổ này giành được quy chế tự trị. Thủ tướng Cheddi Jagan (1961-1964) lãnh đạo đất nước dựa vào những người dân gốc Ấn Độ. Jagan phải đương đầu với những người Da trắng thuộc Lực lượng Thống nhất và nhóm đối lập Da den (35%) do Forbes Burnham lãnh đạo. Guyana độc lập khỏi Anh Quốc năm 1966 và trở thành một nền cộng hoà năm 1970, vẫn là một thành viên của Khối thịnh vượng chung. CIA và United States State Department cùng chính phủ Anh đóng vai trò rất quan trọng trong việc gây ảnh hưởng tới nhân vật chính trị kiểm soát Guyana ở thời gian này. [citation needed] Năm 1980, F. Burnham đắc cử Tổng thống. Sau khi Burnham qua đời năm 1985, Thủ tướng Desmond Hoyte tiếp tục lãnh đạo đất nước. Năm 1992, Cheddi Jagan đắc cử Tổng thống. Năm 1997, Jagan qua đời trong lúc đương nhiệm và quả phụ Janet Jagan tiếp tục lãnh đạo đất nước. Bộ trưởng Tài chính Bharrat Jagdeo trở thành Tổng thống sau khi bà J. Jagan xin từ chức vì lí do sức khỏe năm 1999.
Địa lý
[sửa]Guyana có thể chia thành bốn vùng tự nhiên: một đồng bằng hẹp và màu mỡ nhiều đầm lầy dọc Đại Tây Dương {Đồng bằng thấp ven biển} nơi sinh sống của phần lớn dân cư, tiếp đó là một dải cát trắng ở sâu hơn trong lục địa {Đồi cát và Vùng Đất sét}, nơi chứa đựng hầu hết các tài nguyên khoáng sản Guyana, rừng nhiệt đới dày đặc {Vùng cao nguyên nhiều rừng} dọc giữa đất nước, savannah cỏ phẳng ở phía nam và cuối cùng là những cao nguyên lớn hơn bên trong {Savannah Trong} chứa đựng hầu hết những dãy núi nâng cao dần lên về phía biên giới Brasil. Các dãy núi chính của Guyana đều tập trung tại đây, gồm Núi Ayanganna (2.042 m (6.699 ft)) và trên Núi Roraima (2.835 m (9.301 ft) – núi cao nhất Guyana) trên điểm ngã ba biên giới Brasil-Guyana-Venezuela, một phần của dãy Pakaraima. Roraima được cho từng là cảm hứng của truyện Thế giới đã mất. Có nhiều vách đứng và thác nước, gồm cả Thác Kaieteur nổi tiếng. Giữa Sông Rupununi và biên giới với Brasil là savannah Rupununi, phía nam của nó là Núi Kanuku. Nước này có nhiều con sông, ba sông chính là (từ tây sang đông) Essequibo, Demerara, và Berbice. Con sông Corentyne chạy dọc biên giới với Suriname. Tại cửa sông Essequibo có nhiều đảo nhỏ. Shell Beach dài 90-dặm (145-km) dọc các bờ biển bắc-tây. Guyana là vùng sinh sản chính của rùa biển (chủ yếu là rùa biển Leatherback) và các dạng sinh vật hoang dã khác. Khí hậu địa phương là nhiệt đới và nói chung nóng và ẩm, dù ôn hòa nhờ gió mậu dịch đông bắc dọc bờ biển. Có hai mùa mưa, mùa mưa thứ nhất từ tháng 5 tới giữa tháng 8, và mùa mưa thứ hai từ giữa tháng 11 đến giữa tháng 1.
Vùng
[sửa]Đồng bằng ven viển Guyana (Georgetown, Bartica, Mabaruma, New Amsterdam) Khu vực ven biển của Guyana |
Cao nguyên Guyana (Lethem, Paramakatoi) |
Berbice-Corentyne (Linden) |
Thành phố
[sửa]Các điểm đến khác
[sửa]Đến
[sửa]Công dân các quốc gia sau không cần visa vào Guyana: Antigua và Barbuda, Úc, Áo, Bahamas, Barbados, Bỉ, Belize, Canada, Dominica, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Grenada, Ireland, Ý, Jamaica, Nhật, Triều Tiên, Hàn Quốc, Luxembourg, Montserrat, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Bồ Đào Nha, Nga, Saint Kitts và Nevis, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadines, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Suriname, Trinidad và Tobago, Liên Hiệp Anh, Hoa Kỳ .
Khi xin visa, bạn cần nộp đơn, hộ chiếu còn hạn sử dụng ít nhất 6 tháng. 3 tấm hình cỡ hộ chiếu, và minh chứng đủ chi phí trang trải cho toàn chuyến đi đến Guyana.
Nếu bạn muốn sống hoặc làm việc tại Guyana, bạn cần phải xin một thư chấp nhận từ Bộ Nhà ở, và kèm theo bản sao giấy này trong bộ hồ sơ của bạn.
Chi phí visa du lịch là 30 USD, chi phí visa thương gia một lần vào là 40 USD và cho nhiều lầu trong 3 tháng là 50 USD, và visa thương gia nhiều lần cho 1 năm là 75 USD.
Khi ở Guyana, nếu bạn cần hoặc muốn gia hạn visa, bạn có thể liên hệ với Bộ Nhà ở tại Georgetown.
Bằng đường hàng không
[sửa]Bằng tàu hỏa
[sửa]Bằng ô-tô
[sửa]Bằng buýt
[sửa]Bằng tàu thuyền
[sửa]Đi lại
[sửa]Ngôn ngữ
[sửa]Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức tại Guyana. Ngoài ra, các ngôn ngữ Amerindian (xem Các ngôn ngữ Cariban) được một nhóm thiểu số nhỏ sử dụng và ngôn ngữ Creole Guyan (một thổ ngữ dựa trên tiếng Anh với cú Pháp Phi và Ấn) cũng được sử dụng rộng rãi. Tuy tiếng Anh là ngôn ngữ chính, nó được dùng với trọng âm đứt quãng. Ngữ Pháp tiêu chuẩn cũng không được tôn trọng[cần dẫn nguồn] và nhiều từ bị thay thế.